Lãnh đạo tỉnh và lãnh đạo các Sở, ngành và ban chỉ đạo giảm nghèo họp bàn giải pháp để giảm nghèo nhanh và bền vững
Các dự án hợp phần của Chương trình
Chương trình có 04 dự án hợp phần, đó là (1) Dự án 1- Chương trình 30a, bao gồm nội dung, nhiệm vụ của Chương trình 30a đang thực hiện và hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo, bao gồm (a) Tiểu dự án 1: Hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng các huyện nghèo, (b) Tiểu dự án 2: Hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo, (c) Tiểu Dự án 3: Hỗ trợ phát triển sản xuất, giáo dục đào tạo và dạy nghề các huyện nghèo; (2) Dự án 2 - Chương trình 135, bao gồm hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng, hỗ trợ phát triển sản xuất cho các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu, các thôn, bản đặc biệt khó khăn; (3) Dự án 3- Nhân rộng mô hình giảm nghèo; và (4) Dự án 4- Hỗ trợ nâng cao năng lực giảm nghèo, truyền thông và giám sát đánh giá thực hiện Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững. Cơ quan quản lý Chương trình là Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Trong Chương trình thì mỗi dự án thành phần có mục tiêu, nhiệm vụ, đối tượng đầu tư riêng và do cơ quan thực hiện dự án khác nhau.
Kết quả thực hiện Chương trình trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
Tổng kinh phí thực hiện Chương trình (04 dự án) trong giai đoạn 2011-2014 là 1.048,323 tỷ đồng, trong đó NSTW là 973,616 tỷ đồng, NSĐP và huy động khác là 74,707 tỷ đồng. Ước giải ngân đạt 99,67% kế hoạch vốn đã bố trí. Cụ thể, Dự án 1 bố trí 719,198 tỷ đồng, thực hiện hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng các huyện nghèo 562,057 tỷ đồng đầu tư xây dựng 396 công trình cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và dân sinh, đến nay đã giải ngân đạt 95% kế hoạch vốn. Phân bổ 90,076 tỷ đồng để thực hiện hỗ trợ đầu tư xây dựng 114 công trình cơ sở hạ tầng tại 21 xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển, hải đảo, đã giải ngân 83,276 tỷ đồng, tỷ lệ giải ngân đạt 91% kế hoạch vốn. Thực hiện tiểu Dự án 3 về hỗ trợ phát triển sản xuất, giáo dục đào tạo và dạy nghề tại các huyện nghèo, tỉnh Quảng Nam đã phân bổ 72,982 tỷ đồng cho 03 huyện nghèo để thực hiện hỗ trợ hộ dân nhận chăm sóc, bảo vệ rừng; hỗ trợ gạo đối với hộ nghèo giáp biên giới; hỗ trợ một lần cây trồng, con vật nuôi có giá trị kinh tế cao; hỗ trợ hộ nghèo phát triển chăn nuôi theo hướng tập trung làm chuồng trại; khai hoang, phục hóa; tăng cường cán bộ khuyến nông, lâm, ngư. Đến nay đã giải ngân 63,8 tỷ đồng, tỷ lệ giải ngân đạt 87% kế hoạch vốn. Đối với Dự án 2, toàn tỉnh phân bổ 313,611 tỷ đồng, trong đó vốn đầu tư phát triển 265,4 tỷ đồng hỗ trợ đầu tư xây dựng 485 công trình cơ sở hạ tầng các loại, giải ngân đạt 93% kế hoạch vốn. Từ nguồn vốn sự nghiệp (48,2 tỷ đồng) các địa phương đã triển thực hiện các hợp phần của dự án hỗ trợ phát triển sản xuất theo Chương trình 135, đến nay tỷ lệ giải ngân đạt 70%, ước tỷ lệ giải ngân đến hết thời gian quy định đạt 100% kế hoạch vốn. Bình quân mỗi năm bố trí 82,9 tỷ đồng.
Nhiều công trình cơ sở hạ tầng, trong đó có trường học đã được đầu tư từ nguồn vốn của Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững
Đối với Dự án 3- Nhân rộng mô hình giảm nghèo trong giai đoạn này tỉnh đã phân bổ 3,5 tỷ đồng để hỗ trợ đầu tư xây dựng, nhân rộng 07 mô hình giảm nghèo tại 07 xã với 378 hộ nghèo tham gia hưởng lợi như Mô hình trồng cỏ chăn nuôi bò cái sinh sản tại xã Đại Chánh, huyện Đại Lộc (70 hộ/511 triệu) và xã Bình Quế, huyện Thăng Bình (70 hộ/462 triệu); năm 2012, đầu tư mô hình nuôi nhím sinh sản tại xã Trà Sơn, huyện Bắc Trà My (27 hộ/520 triệu và mô hình nuôi gà thả vườn an toàn dịch bệnh tại xã Tiên Sơn, huyện Tiên Phước (98 hộ/480 triệu đồng); năm 2013, nhân rộng mô hình nuôi nhím sinh sản tại xã Ba, huyện Đông Giang (26 hộ/500 triệu) và mô hình nuôi bò cái sinh sản và mô hình nuôi bồ câu thương phẩm tại xã Bình Sơn, huyện Hiệp Đức (37 hộ/500 triệu); năm 2014, nhân rộng mô hình chăn nuôi bò cái lai sinh sản tại xã Bình Nam, Thăng Bình (50 hộ/500 triệu, hiện xã đang triển khai dự kiến hoàn thành trong tháng 10/2014). Đến nay đã giải ngân 03 tỷ đồng/3,5 tỷ đồng, tỷ lệ giải ngân đạt 85,71% (do năm 2014 đang thực hiện). Bình quân mỗi năm bố trí 875 triệu đồng, số hộ nghèo tham gia dự án mô hình đã thoát nghèo 219 hộ, đạt 57,94% số hộ tham gia.

Nhiều mô hình giảm nghèo hiệu quả đối với hộ nghèo nông thôn được xây dựng và nhân rộng như mô hình trồng cỏ chăn nuôi bò cái lai sinh sản
Dự án 4- Hỗ trợ nâng cao năng lực giảm nghèo, truyền thông và giám sát đánh giá thực hiện Chương trình: Từ năm 2011-2014, trên cơ sở nguồn kinh phí phân bổ (5,097 tỷ đồng), đã tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực, tham vấn, đối thoại chính sách giảm nghèo cho 1.100 lượt cán bộ làm công tác giảm nghèo của các cấp (huyện, xã và trưởng thôn, khối phố, người nghèo); xây dựng website giảm nghèo của tỉnh (địa chỉ: giamngheo.sldtbxh.quangnam.gov.vn), phần mềm quản lý hộ nghèo, hộ cận nghèo trực tuyến (địa chỉ: qlhongheo. sldtbxh.quangnam.gov.vn).... để phục vụ tuyên truyền, quản lý đối tượng và tổ chức thực các chương trình, chính sách, dự án giảm nghèo cũng như chỉ đạo điều hành, xây dựng kế hoạch và dự toán ngân sách cho chương trình. Đến nay tỷ lệ giải ngân đạt 83,4% kế hoạch, ước đến hết thời gian quy định tỷ lệ giải ngân đạt 89,3% kế hoạch vốn. Bình quân mỗi năm bố trí 1,274 tỷ đồng.
Nhiều khóa tập huấn, triển khai chính sách mới về giảm nghèo được tổ chức
Hiệu quả giảm nghèo
So với mục tiêu của Nghị quyết 80/NQ-CP ngày 19/5/2011 của Chính phủ, tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2011-2013 giảm bình quân 2,995%/năm, vượt 49,5% kế hoạch so với mục tiêu của Nghị quyết 80/NQ-CP (2% năm); ước đến cuối năm 2015, tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh giảm còn 9%, bình quân giảm 2,98%/năm. Tỷ lệ hộ nghèo của 03 huyện nghèo theo Nghị quyết 30a giảm bình quân 5,1%/năm, từ 70,6% năm 2011 giảm còn 60,39% năm 2013, vượt so với mục tiêu của Nghị quyết 80/NQ-CP (4%/năm). Với mức giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân của các huyện nghèo hiện nay như trên, ước tỷ lệ hộ nghèo bình quân chung của các huyện nghèo đến cuối năm 2015 giảm còn khoảng 50%, không đạt so với mục tiêu của Nghị quyết 30a (đến năm 2015, giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống mức ngang bằng mức trung bình của tỉnh (năm 2015 dự kiến toàn tỉnh giảm tỷ lệ hộ nghèo còn dưới 9%).
Thông qua đầu tư của nhiều chương trình, tác động trực tiếp của Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững thì hệ thống cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ cho sản xuất và dân sinh tại các huyện, xã và thôn nghèo như điện, đường giao thông, chợ, hệ thống thủy lợi,... đã được cải thiện đáng kể, góp phần đáp ứng được yêu cầu cấp bách của người dân và địa phương, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giao lưu hàng hóa, văn hóa giữa các vùng, giữa các địa phương, nhất là tại các xã biên giới, xã vùng cao. Thông qua các hoạt động hỗ trợ nâng cao năng lực giảm nghèo, truyền thông, giám sát đánh giá chương trình như tập huấn, đối thoại, tham vấn, phát hành tờ rơi, pano,... cán bộ giảm nghèo cấp xã được tập huấn về các chủ trương, giải pháp, chính sách giảm nghèo của Trung ương và của tỉnh; hầu hết cán bộ cấp xã và người dân nắm bắt được các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước giảm nghèo và an sinh xã hội, góp phần nâng cao trình độ của đội ngủ cán bộ cấp xã cũng như trình độ dân trí của người dân; nâng cao năng lực và hiệu quả của hoạt động kiểm tra, giám sát tại địa phương.
Công trình Cầu treo xã Trà Dương, huyện Bắc Trà My được đầu tư từ nguồn vốn cho huyện nghèo giúp giao thông thuận lợi giữa các thôn
Có thể nhận định rằng, Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững đã góp phần rất lớn trong việc làm thay đổi diện mạo của nông thôn, nhất là tại các xã nghèo, huyện nghèo, miền núi, biên giới và bãi ngang ven biển, góp phần ổn định kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng, nhất là vùng biên giới. Tuy nhiên, công tác giảm nghèo vẫn còn những khó khăn thách thức, trong thời gian đến Chính phủ cần tiếp tuc đầu tư và nâng mức hỗ trợ đầu tư cho các dự án hợp phần của chương trình giảm nghèo, giảm đầu tư cho các chính sách hỗ trợ trực tiếp cho không hộ nghèo để tăng nguồn lực đầu tư cho các dự án đầu tư cho cộng đồng hưởng lợi, hoàn thiện cơ sở hạ tầng theo tiêu chí nông thôn mới để giảm nghèo nhanh và bền vững. Bên cạnh đó cần duy trì một số chính sách hỗ trợ để bảo đảm tối thiểu về y tế và dinh dưỡng, giáo dục và đào tạo, nhà ở, thông tin và truyền thông, trợ giúp pháp lý cho người nghèo./.